Diễn biến Chiến_dịch_Mozdok-Stavropol

Những biến động về binh lực của quân đội Liên Xô trước chiến dịch

Sau trận phản công nhưng không đạt được kết quả mong đợi giữa tháng 12 năm 1942, tướng I. I. Maslennikov, tư lệnh Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) quyết định thành lập tại sườn phải của cụm quân một lực lượng xung kích tấn công, bao gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 9, 10 và chọn ngày 29 tháng 12 để bắt đầu cuộc tấn công bao vây và tiêu diệt quân Đức ở khu vực Mozdok, và sau đó phát triển đến Prokhladny. Nhưng trên thực tế thì trọng tâm tác chiến của toàn bộ Mặt trận Kavkaz chuyển sang hướng Biển Đen, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô điều Quân đoàn bộ binh cận vệ 10 đến triển khai tại khu vực Tuapse, trên chính diện của các sư đoàn bộ binh 271 và 347 và lệnh cho tướng I. I. Maslennikov hoãn cuộc tấn công. Ban đầu, tướng I. I. Maslennikov không muốn chuyển giao Quân đoàn bộ binh cận vệ 10 nhưng trước nhận xét nặng nề của I. V. Stalin: "Đồng chí ấy (chỉ Maslennikov) đang xa rời bộ đội của mình, không chỉ huy được họ và đang bơi trong cảnh mất trật tự"; I. I. Maslennikov buộc phải chấp thuận.[8]

Mặc dù bị khuyết một quân đoàn bộ binh quan trọng, tướng I. I. Maslennikov vẫn tiếp tục điều chỉnh lại lực lượng để tiến hành cuộc phản công mà ông đã có kế hoạch từ trước. Ngày 1 tháng 1 năm 1943, Tập đoàn quân 44 đã tập trung xong lực lượng trên cánh phải của Cụm Bắc Kavkaz để phản công vào Mozdok. Các sư đoàn kỵ binh 4 và 5 tổ chức vượt sông ở khu vực Vorontsov (???)-Alexandrov (???) với ý định chia cắt Sư đoàn "F" (Đức) với Tập đoàn quân xe tăng 1 để hỗ trợ cho cuộc công kích vào Georgiyevsk. Tập đoàn quân 58 đã tập trung đầy đủ đội hình tại khu vực Malgobek theo kế hoạch để tấn công hợp điểm vào Mozdok. Tại cánh trái, Các tập đoàn quân 9 và 37 sẵn sàng tấn công bằng hai mũi song song vào Nalchik và Maisky. Lực lượng đột phá cho cuộc tấn công này là hai cụm xe tăng, mỗi cụm có biên chế tương đương quân đoàn. Cụm xe tăng thứ nhất do tướng G. P. Lobanov chỉ huy hoạt động trong dải tấn công của Tập đoàn quân 44 gồm các lữ đoàn xe tăng 2, 15, 53, trung đoàn xe tăng 225, một tiểu đoàn xe tăng độc lập và hai trung đoàn pháo chống tăng. Trang bị chủ yếu gồm 106 xe tăng và 24 xe bọc thép. Cụm xe tăng thứ hai do tướng V. I. Filippov chỉ huy gồm các lữ đoàn xe tăng 52, 140 và 207, hai tiểu đoàn xe tăng độc lập, hai trung đoàn pháo chống tăng và một sư đoàn bộ binh. Trang bị chủ yếu gồm 123 xe tăng.[2]

Tấn công tuyến phòng thủ phía trước Stavropol

Quân đội Liên Xô giải phóng Mozdok

Ngày 3 tháng 1, Tập đoàn quân 44 trên cánh phải của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) đã tiến ra tuyến Sogulyakin sâu 20 km nhưng không gặp quân Đức. Cùng ngày, sư đoàn 417 của Tập đoàn quân 58 đã vượt sông Terek, sau khi đánh tan hai trung đoàn bộ binh thuộc các sư đoàn 50 và 111 (Đức) đã tiến về Mozdok. Trên khắp trận tuyến, quân Đức đều nhanh chóng rút lui về tuyến Kislovodsk, Piatigorsk, Georgiyevsk. Ngày 4 tháng 1, Tập đoàn quân 44 mới phải mở các trận đánh vào sườn trái của các sư đoàn xe tăng 3 và 13 (Đức) tại Sunzhenskiy và tiến thêm 20 km về hướng Georgiyevsk. Toàn bộ cánh phải của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz chuyển sang truy kích quân Đức đang rút lui trên tuyến Mozdok, Sovetskaya, Georgiyevsk. Ở cánh trái, ngày 3 tháng 1, Tập đoàn quân 9 (Liên Xô) xuất phát từ cửa mở Elkhotovo tấn công vào cánh quân chặn hậu của Đức gồm sư đoàn bộ binh 370, sư đoàn đổ bộ đường không 5 và một phần sư đoàn xe tăng 13 và tiến quân theo trục Elkhotovo Maisky, Prokhladny. Ngày 4 tháng 1, quân Đức bỏ Nalchik rút về Kislovodsk. Chiều ngày 4 tháng 1, Tập đoàn quân 37 chiếm Nalchik.[7] Trong quá trình rút lui, quân Đức đã tổ chức phá hoại một cách có hệ thống các tuyến đường sắt và cho nổ tung các cây cầu bắc qua các con sông Baksan, Malka, Zolka và Podkymok nhằm làm chậm tốc độ hành quân và cản trở các hoạt động vận tải bảo đảm hậu cần cho các cánh quân đang tấn công của quân đội Liên Xô.[4]

Ngày 6 tháng 1, Quân đoàn bộ binh 82 thuộc Tập đoàn quân 37 (Liên Xô) vấp phải đòn phản kích quy mô đầu tiên kể từ ngày phát động tấn công của 11 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn đổ bộ đường không 5 (Đức) và phải dừng lại trên tuyến sông Malka. Bộ tư lệnh Tập đoàn quân 9 phải tách Lữ đoàn hải quân đánh bộ 62 và Lữ đoàn xe tăng 140 hỗ trợ cho "người láng giếng" bên trái để giải quyết cứ điểm Zalovskoye (???). Với tốc độ tiến quân từ 25 đến 60 km trong một ngày và mạnh lưới thông tin hữu không thể kịp triển khai; đến ngày 8 tháng 1, Bộ tư lệnh Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) đã đứt liên lạc với các tập đoàn quân 4 và 58. Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã cảnh cáo các tướng I. V. Tyulenev và I. I. Maslennikov về việc không chỉ huy được các tập đoàn quân cánh phải, yêu cầu họ phải chịu trách nhiệm cá nhân về việc nối lại liên lạc và mỗi ngày phải báo cáo hai lần tình hình mặt trận về Bộ Tổng tham mưu, (theo quy định thông thường là một lần báo cáo một ngày).[2] Việc rút lui nhanh chóng của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã làm cho các đơn vị của họ trong khi rút quân đã bứt xa khỏi chủ lực của Cụm Bắc Kavkaz vài chục km, khiến cho bốn tập đoàn quân của quân đội Liên Xô đang tiến chậm theo sau không kịp tổ chức các mũi đột kích vu hồi vào hai không thể vào hai bên sườn. Ngay cả các sư đoàn kỵ binh Liên Xô cũng không thể tiến nhanh qua 25 km trong một ngày đêm. Ý đồ của tướng I. I. Maslennikov định hợp vây các sư đoàn xe tăng và sư đoàn "F" của quân Đức tại phía nam tuyến Kislovodsk, Piatigorsk, Georgiyevsk bị phá sản.[9]

Với việc rút quân có tổ chức, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã không để cho các đơn vị quân đội Liên Xô có thời gian đánh chiếm các vị trí ở hai bên sườn và củng cố được tuyến phòng thủ tạm thời ở Đông Nam Stavropol trong khi vẫn tiếp tục rút quân. Bộ chỉ huy Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã có chủ ý giam chân càng lâu càng tốt các tập đoàn quân của Cụm Bắc Kavkaz (Liên Xô trên tuyến sông Kuma nên đã tổ chức các cụm đề kháng mạnh tại Kislovodsk, Vorontsovo-Alexandrov, Georgiyevsk, Essentuk, Mineralnye-Vody và Pyatigorsk.[8] Không để ý đến tính thiếu thực tế khi xác định cự ly tiến công quá xa, ngày 6 tháng 1, tướng I. I. Maslennikov đã giao nhiệm vụ cho Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 Kuban phải đánh chiếm Stavropol ở cách xa đến 200 km tính từ Georgiyevsk, Tập đoàn quân 58 với đội hình chủ yếu là bộ binh nhẹ cũng phải tác chiến trên chiều sâu 100 km trong 2 ngày. Còn Tập đoàn quân 9 có sức tấn công mạnh hơn (Cụm xe tăng của tướng V. I. Filippov nằm trong Tập đoàn quân này) lại bị giữ lại như một lực lượng dự bị. Trong khi đó, ngày 7 tháng 1, quân Đức vẫn tiếp tục rút về tuyến Cherkessk, Nevinnomyssk, Staromaryevka và Kugulta sau khi đã để lại các phân đội chặn hậu ở Kursavka, Aleksandrovskoye, Blagodatnoye và Petrovskoye. Ngày 7 tháng 1, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô ra lệnh huỷ bỏ cuộc tấn công vỗ mặt dự kiến do Tập đoàn quân 58 tiến hành vào Kursavka và Minerany-Vody đồng thời yêu cầu tướng I. I. Maslennikov phải đưa Tập đoàn quân 9, trong đó có Cụm xe tăng của V. I. Filippov lên phía trước để phối hợp với các quân đoàn kỵ binh và cụm xe tăng của Tập đoàn quân 44 tổ chức vu hồi từ hai phía vào tuyến phòng thủ Kuma. Bức điện ngày 7 tháng 1 của Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin cũng yêu cầu phải khôi phục càng nhanh càng tốt tuyến đường sắt Mozdok đi Georgiyevsk để bảo đảm cơ động lực lượng nhanh chóng lên tuyến trước và chuyển Tập đoàn quân 58 làm lực lượng dự bị.[2]

Từ ngày 9 đến ngày 14 tháng 1 đã diễn ra các trận kịch chiến giữa ba tập đoàn quân Liên Xô (9, 37 và 44) với Quân đoàn xe tăng 40 và Quân đoàn bộ binh 52 (Đức) trên tuyến sông Kuma. Tập đoàn quân không quân 4 của tướng K. A. Versinin đã điều động sư đoàn máy bay ném bom 219 hỗ trợ cho cuộc tấn công. Quân đoàn không quân ném bom tầm xa 50 của tướng F. A. Naumenko cũng tổ chức oanh tạc Georgiyevsk và Mineralnye-Vody. Phải đến ngày 14 tháng 1, quân đội Liên Xô mới đẩy lùi được hai quân đoàn Đức khỏi tuyến sông Kuma. Tướng Franz Westhoven và tướng Friedrich Schmid muốn lập phòng tuyến mới tại hai khu vực Kursavka và Aleksandrovskoye hai bên con đường sắt nhưng ngay lập tức phải huỷ bỏ ý định đó vì các cụm xe tăng của các tập đoàn quân 9 và 44 đã hình thành hai gọng kìm tiến về Stavropol. Ngày 18 tháng 1, Tập đoàn quân 37 (Liên Xô) chiếm thành phố Cherkassy, có ý nghĩa như một bàn đạp uy hiếp Nevinnomyssk từ phía nam, Ngày 19 tháng 1, Tập đoàn quân 44 (Liên Xô đã có mặt ở cửa ngõ phía đông Stavropol.[7] Ngày 21 tháng 1, Cụm tác chiếc Bắc Kavkaz mở cuộc tổng công kích vào Stavropol, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 Kuban tiến công trên cánh phải đã đột kích tới Bezopasnoye. Các tập đoàn quân 9 và 37 (Liên Xô) phá vỡ phòng tuyến sông Zelenchuk và đánh chiếm Nevinnomyssk. Song, vẫn là quá muộn để có thể hợp vây Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã rút quân từ đêm hôm trước. Do cuộc tấn công của Cụm tác chiến Biển Đen bị hoãn lại nhiều lần và chỉ được triển khai tích cực vào ngày 16 tháng 1 năm 1943 nên cuộc tiến công của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz từ ngày 2 tháng 1 năm 1943 chỉ có tác dụng đẩy đuổi Tập đoàn quân xe tăng 1 phía bắc mà không thực hiện được ý đồ bao vây chia cắt từng sư đoàn của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Ngày 15 tháng 1, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã thiết lập được một lá chắn xe tăng gồm ba trung đoàn của Sư đoàn xe tăng 3 (Quân đoàn xe tăng 40) và Sư đoàn xe tăng 13 (Quân đoàn xe tăng 3) tại khu vực Maikop - Armavir để ngăn chặn đòn đột kích từ bên sườn hướng Biển Đen của Tập đoàn quân 56 (Liên Xô).[9]

Thời gian vẫn trôi đi và tốc độ tấn công của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz ngày càng chậm lại, lối đánh "bóc vỏ" của các tập đoàn quân 9 và 37 chỉ có tác dụng ngược lại là làm cho quân đội Đức Quốc xã rút lui nhanh hơn và quân đội Liên Xô ngày càng mệt mỏi hơn. Bắt đầu từ tuần thứ ba của chiến dịch, tốc độ tấn công của Tập đoàn quân 37 chỉ còn 10 đến 15 km/ngày. Để cải thiện tình hình, tướng I. I. Maslennikov điều Tập đoàn quân 58 chêm vào chỗ trống giữa Tập đoàn quân 44 lúc này đã tiến xa về phía bắc với Tập đoàn quân 9 ở khu vực phía bắc Stavropol.[7]. Ngày 23 tháng 1, Tập đoàn quân xe tăng 1 bỏ phòng tuyến Cherkessk, Nevinnomyssk, Staromaryevka và Kugulta rút về thiết lập tuyến phòng thủ thứ ba từ Novokubanskiy qua Grigoropolisskaya, Novo Aleksandrovka, Belaya Glina, Yegorlykskaya đến phía nam Novocherkassy, hình thành một lá chắn thép bằng xe tăng dọc theo phía đông tuyến đường sắt Rostov - Armavir. Mặc dù bị mất Armavir nhưng do hành động chậm trễ của Cụm tác chiến Biển Đen, quân Đức vẫn chiếm giữ Maikop cho đến khi Tập đoàn quân 18 và 46 chiếm lại ngày 30 tháng 1 năm 1943 với sự giúp đỡ của du kích.[10]

Trên các tuyến cuối cùng ở phía nam Rostov

Ngày 23 tháng 1, các tập đoàn quân 9 và 37 (Liên Xô) đánh chiếm Armavir và Novokubansk nhưng ngày hôm sau đã phải dừng lại ở các cửa ngõ phía tây các thị trấn này trước tuyến phòng thủ mới của Tập đoàn quân 17 (Đức). Quân Đức chủ động rút ra khỏi thành phố nên thiệt hại của họ được giảm thiểu, trong các trận đánh ở Armavir và Novokubansk, quân Đức chỉ mất 600 người, 8 xe tăng, 6 khẩu pháo, 17 khẩu súng cối, 15 ô tô. Đối với các đơn vị lớn như hai tập đoàn quân 9 và 37 thì hiệu suất chiến đấu như vậy là rất thấp.[2] Ngày 25 tháng 1, Adof Hitler quyết định bỏ đồng bằng Kuban, rút toàn bộ lực lượng còn lại của Tập đoàn quân xe tăng 1 khỏi khu vực Kropotkin, Tikhoretsk, Ekaterinovka, Kushchevsky về hạ lưu sông Đông. Cụm tập đoàn quân Sông Đông (Đức) được lệnh hỗ trợ cho Cụm tập đoàn quân A bằng cách điều động 88 đoàn tàu hoả để di chuyển các đơn vị xe tăng còn lại của Tập đoàn quân xe tăng 1 khỏi khu vực Kuban về Azov, Bataisk và Rostov. Ngược lại, họ phải điều Quân đoàn xe tăng 48 của Tập đoàn quân xe tăng 4 đến đến khu vực Donets để tham gia ngăn chặn cuộc tổng phản công mùa xuân năm 1943 của quân đội Liên Xô tại trung lưu Sông Đông. Khi được thống chế Erich von Manstein cho biết cả quân đoàn chỉ còn lại 87 xe tăng, tướng Heintz Guderial, tổng thanh tra lực lượng xe tăng Đức trả lời: "Quân đoàn sẽ nhận được 300 xe tăng mới tại Pologi". Quân đoàn xe tăng 57 và các sư đoàn bộ binh 15, 16 xuống phía nam giữ phòng tuyến sông Manych.[11]

Để ngăn chặn cuộc rút lui của quân Đức, cả hai tập đoàn quân không quân 4 và 5 (Liên Xô) được lệnh không kích các đoàn tàu chở quân của Đức dọc con đường sắt từ Kropotkin qua Tikhoretsk đi Rostov. Vì phải tập trung không quân để cố cứu vãn sự sống còn của Tập đoàn quân 6 đang trong cơn hấp hối tại Stalingrad, Tập đoàn quân không quân 4 (Đức) hầu như không còn máy bay để hoạt động tại Kavkaz, 150 máy bay tiêm kích Đức tại Krym không thể với tầm hoạt động tới Kuban. Trận ném bom vào ga đầu mối Tikhoretsk ngày 26 tháng 1 đã làm tê liệt tuyến đường sắt của quân Đức trong bốn ngày. Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 1, khoảng 380 toa tàu, 31 đầu tàu, chở theo 50 xe tăng hạng nặng, 128 xe tăng xe tăng hạng trung và hạng nhẹ cùng với hàng nghìn ô tô, mô tô của quân Đức phải nằm lại rải rác dọc tuyến đường từ Armavir qua Kropotkin đến Tikhoretsk đã làm mồi cho các máy bay cường kích của bốn trung đoàn không quân 8, 131, 588 và 590 của Tập đoàn quân không quân 4 (Liên Xô). Sau các trận không kích này, Quân đoàn xe tăng 40 (Đức) bị thiệt hại nặng và bị điều về Stalino để bổ sung quân số và trang bị lại. Do hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, các trung đoàn không quân nói trên của Liên Xô được đổi tên thành các trung đoàn không quân cận vệ 40, 42, 43 và 46. Điều đáng tiếc là các tập đoàn quân 9 và 37 đã không tận dụng được kết quả các cuộc không kích này để đẩy nhanh tốc độ tấn công. Hai tập đoàn quân cánh trái của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (từ ngày 24 tháng 1 là Phương diện quân Bắc Kavkaz) đã tụt lại sau hai tập đoàn quân ở cánh phải hàng trăm km làm cho mật độ binh lực bị giảm đi, kéo theo tốc độ tấn công chậm lại.[2]

Mặc dù ngày 31 tháng 1, thống chế Erich von Manstein đã lần thứ hai yêu cầu chuyển giao Tập đoàn quân xe tăng 1 cho Cụm tập đoàn quân Sông Đông để thống nhất các lực lượng phòng thủ Rostov nhưng Hitler lại do dự. Ông ta hy vọng quân đội Liên Xô sẽ đuối sức sau một cuộc tấn công dài hơn 600 km trong một tháng sẽ suy yếu và Tập đoàn quân xe tăng 1 có thể mở lại trận công kích để giải thoát cho Tập đoàn quân 17 (Đức) tại các cứ bàn đạp Taman. Erich von Manstein cho rằng nếu không giữ được Rostov thì căn cứ bàn đạp ấy sẽ mất hết ý nghĩa nhưng Hitler biện bạch rằng ông ta cần căn cứ bàn đạp ấy để ngăn không cho đối phương sử dụng cảng Novorossiysk. Khi Erich von Manstein nhắc lại câu nói của Hitler trong ngày đầu năm, và rằng đối với quân đội Đức, chiến trường Donets có tầm quan trọng sống còn hơn thì Hitler nổi khùng và chấm dứt cuộc nói chuyện.[11]

Ngày 4 tháng 2, Tập đoàn quân 58 (Liên Xô) đã tiến đến phía nam biển Azov trên khu vực Novobataysk, Eisk và Yasenskaya. Ngày 6 tháng 2, các đơn vị phái đi trước của Tập đoàn quân 44 gồm hai quân đoàn kỵ binh cận vệ Kuban 4, 5 và cụm xe tăng của tướng G. P. Lobanov đã hoạt động ở phía nam Rostov. Tại đây, quân đội Liên Xô vấp phải "tấm mộc thép" do Quân đoàn xe tăng 57 (Tập đoàn quân xe tăng 4) và Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) dựng lên tại cửa ngõ Azov, Bataisk và Rostov.[10]